Hiện nay, cây chanh leo đang là một trong số những cây trồng được người dân trên địa bàn tỉnh Gia Lai nói chung và huyện Chư Sê nói riêng lựa chọn đầu tư phát triển. Theo Văn bản số 604/CCTTBVTV-BVTV&KDTV ngày 18/10/2024 của Chi cục Trồng trọt và BVTV tỉnh về việc hướng dẫn cách nhận biết và các biện pháp phòng trừ sâu bệnh hại cây chanh leo trên địa bàn tỉnh; hiện nay, một số địa phương trong tỉnh đã phát triển mạnh về quy mô diện tích, hình thành các vùng sản xuất chuyên canh tập trung, gắn với truy xuất nguồn gốc, xây dựng mã số vùng trồng, chế biến và tiêu thụ; tạo việc làm và nâng cao thu nhập, làm giàu cho nông dân. Tuy nhiên, sản xuất chanh leo cũng đang đứng trước nhiều tồn tại, rủi ro và thách thức như việc nhiều địa phương phát triển, mở rộng trồng diện tích mới ở những vùng không có lợi thế; việc quản lý sâu bệnh hại trên cây chanh leo còn nhiều hạn chế cần tiếp tục được cải thiện; nhiều hộ nông dân, vùng sản xuất còn thực hiện quy trình canh tác chưa bền vững.
Để kịp thời triển khai đồng bộ có hiệu quả các biện pháp phòng trừ sâu bệnh hại trên cây chanh leo; giúp người nông dân kiểm tra, phát hiện kịp thời và chủ động phòng trừ có hiệu quả, hạn chế sâu bệnh lây lan trên diện rộng ảnh hưởng đến sản xuất; các cơ quan chuyên môn khuyến cáo bà con nông dân các biện pháp phòng trừ các loại sâu bệnh hại để cây chanh leo như sau:
Cách nhận biết các đối tượng sâu, bệnh hại chính trên cây chanh leo
Đối với nhóm côn trùng chích hút, nhện và ruồi gây hại: Rệp muội: Chích hút làm lá bị cong và xoăn, cây sinh trưởng kém, lá bị vàng héo, quả nhỏ và dễ bị cháy xám. Rệp muội là môi giới truyền một số virus trên chanh dây. Bọ phấn trắng - rầy phấn trắng: Gây hại ở ngọn non và các lá non làm cho lá vàng. Bọ phấn là môi giới truyền một số virus trên chanh dây. Bo ̣trĩ: Gây xoăn và biến dạng lá, hoa và quả. Bọ xít: Bọ xít gai, bọ xít xanh, bọ xít càng to… chích hút vào lá, hoa, đọt non và quả non làm cho quả lốm đốm, nếu gây hại nặng làm rụng quả. Nhện nhỏ: Có 2 loại gây hại chính là nhện đỏ và nhện trắng, gây hại trên lá và bề mặt quả, chích hút làm cho lá vàng và cong, mật độ cao làm khô và rụng lá, vỏ quả mất màu, quả có thể bị biến dạng, chậm phát triển. Ruồi đục quả: Ruồi gây hại làm cho quả non bị nhăn nheo, rụng sớm. Trên quả đã lớn xung quanh vết hại hơi lõm xuống, vị trí vết hại vỏ quả cứng màu xám trắng, chính giữa vết hại có chấm màu đen. Vết thương do ruồi đục sẽ làm giảm giá trị thương phẩm của quả.
Đối với nhóm bệnh hại do virus: Hiện nay đã ghi nhận được 6 loài virus gây hại trên cây chanh dây, trong đó có 3 loài gây hiện tượng cứng quả, với nhiều triệu chứng khác nhau và khả năng nhiễm một hay nhiều loài virus trên cùng mẫu bệnh. Trên ngọn: Gây hiện tượng quăn và chùn ngọn. Trên lá: Gây khảm vàng, nhăn nheo, phồng rộp. Trên quả: Gây biến dạng, quả nhỏ, vỏ quả bị hóa bần, quả chuyển màu từ màu xanh sang màu trắng
Bệnh virus gây hại chanh dây (ảnh nguồn internet)
Đối với nhóm bệnh hại do nấm: Bệnh đốm nâu: Bệnh gây hại trên lá và quả tạo thành những đốm tròn có màu nâu đỏ, bệnh nặng làm rách lá và thối, rụng quả. Bệnh thối thân, thối quả: Gây hại trên tất cả các bộ phận của cây, bệnh làm thối quả, rụng quả, thối lá, thối thân, thối rễ, bệnh nặng có thể dẫn đến chất cây. Bệnh thán thư: Bệnh gây hại trên lá, thân cành và quả, vết bệnh màu nâu nhạt đến đậm, hình hơi tròn hoặc không định hình, bệnh làm rụng hoa, lá, quả. Bệnh nặng có thể gây chết ngọn cây. Bệnh thối gốc, phình thân: Bệnh làm phần gốc thân bị phình to, nứt toác theo chiều dọc thân, khi nặng chuyển màu đen và bị thối mục hoàn toàn, cây chanh dây bị héo và chết.
Tổ chức triển khai thực hiện đồng bộ các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp để phòng trừ sâu, bệnh gây hại trên cây chanh leo
Biện pháp giống: Sử dụng cây giống của những cơ sở sản xuất có uy tín, chất lượng tốt, có nguồn gốc rõ ràng, được cơ quan chuyên môn cấp phép. Cây giống trước khi đem ra trồng phải đảm bảo chứng nhận sạch virus và không nhiễm các nấm bệnh truyền qua đất như Fusarium, Phytophthora…
Biện pháp canh tác: Chọn đất địa hình có mặt bằng đảm bảo, có độ dốc vừa phải từ 0 - 7 độ, có thể lên đến 10 độ. Nếu đất khó tiêu thoát nước trong mùa mưa cần tạo các rãnh thoát nước để việc tiêu thoát được tốt, có tầng canh tác dày 50 cm trở lên, độ mùn 1%, đất có độ PH từ 5,5 - 7,5. Thu dọn sạch sẽ cỏ dại, tàn dư thực vật, nhổ bỏ các cây là ký chủ của virus và môi giới truyền bệnh như: Cỏ xuyến chi, bầu bí, dưa chuột, mướp đắng, su su, cà tím, ớt… trên khu vực dự định trồng chanh leo. Trước khi trồng cây phải xử lý đất để diệt trừ mầm sâu, bệnh bằng cách cày sâu 35-40 cm, bừa kỹ 2 lần, nhặt sạch cỏ dại và tàn dư thực vật khác. Xử lý mối, tuyến trùng và các sâu hại dưới đất bằng thuốc bảo vệ thực vật trước khi trồng. Khử trùng đất bằng vôi bột với lượng 0,5 kg/hố trước khi trồng ít nhất 15 - 20 ngày. Mật độ: Tùy điều kiện đất đai, kỹ thuật canh tác và điều kiện khí hậu từng vùng địa phương để lựa chọn mật độ trồng thích hợp, mật độ trồng dao động từ 600 - 800 - 1000 cây/ha (6mx3m, 4mx3m, 3mx3m). Vệ sinh đồng ruộng: Thường xuyên kiểm tra để phát hiện sớm, thu gom và tiêu hủy triệt để các bộ phận của cây bị nhiễm sâu, bệnh hại, loại bỏ và thay thế các cây có biểu hiện của bệnh virus như xoăn, vàng lá và ngọn. Hàng năm, khử trùng vườn bằng vôi bột với lượng 500 kg/ha (chia làm 2 lần), rắc toàn bộ vườn hoặc rắc vào các rãnh thoát nước để khử trùng nguồn bệnh và nâng cao độ pH của đất đảm bảo từ 5,5-7,7. Cắt tỉa cành, lá: Sau thu hoạch cắt toàn bộ các cành trên mặt giàn đã cho quả. Để lại thân và các cành từ mặt đất tới giàn. Khi chồi mới nhú ra từ 2 - 3 cm cần phun thuốc phòng, trừ sâu bệnh để bảo vệ các chồi non. Phải khử trùng dụng cụ cắt tỉa bằng nước vôi trong hoặc cồn 75% trước khi chuyển sang cắt tỉa cây khác. Thu dọn sạch sẽ cành, lá, quả sau khi cắt tỉa ra khỏi vườn, không để hoặc ủ cành vào gốc cây. Bảo vệ cây tránh môi giới truyền bệnh virus sau khi trồng: Làm lồng lưới có kích thước 2,5 m x 0,7 m, sử dụng lưới nhựa kích thước mắt lưới từ 90 - 120 ô/cm2 để bao bọc, kín một đầu, có cửa bên sườn để đóng, mở khi cần. Sử dụng cọc tre dài 3 m cắm giữa hố trồng tạo điểm bám cho cây leo lên giàn. Dùng 4 cọc tre dài 2,5 m cắm ở 4 góc, cách nhau 50 cm. Chụp lồng lưới bên ngoài cọc tre, kéo mép lưới xuống sát mặt đất để lồng lưới căng đều, lấp đất phủ kín chân lưới. Buộc cố định đỉnh của lồng lưới lên sát với mặt giàn. Khi ngọn cây chạm mặt giàn tiến hành tháo bỏ lồng lưới. Sử dụng phân bón theo hướng cân bằng dinh dưỡng, ứng dụng công nghệ sinh học để phòng trừ sâu bệnh; sử dụng công nghệ tưới tiên tiến, tiết kiệm nước; áp dụng sản xuất theo tiêu chuẩn như VietGAP, GlobalGAP, Oganic...
Biện pháp sinh học: Sử dụng chế phẩm sinh học chứa các vi sinh vật đối kháng như nấm Trichoderma, xạ khuẩn Steptomyces, vi khuẩn Bacillus, thảo mộc trừ tuyến trùng chứa các hoạt chất saponin, ankaloid, nấm ký sinh côn trùng Metarhizium… và các vi sinh vật có ích khác để phòng trừ nấm và tuyến trùng gây hại trong đất. Các chế phẩm sinh học có thể bón kết hợp với các đợt bón phân, hoặc rắc chế phẩm (trong vùng rễ) rồi phủ lớp đất lên. Trong mùa khô có thể hòa chế phẩm sinh học trong nước để tưới. Thời kỳ trước và sau mùa mưa nên sử dụng nấm đối kháng Trichoderma nồng độ 0,5% tưới vào gốc từ 3 - 4 lần/vụ, mỗi lần cách nhau 10 - 15 ngày. Sử dụng bẫy dính vàng để bắt côn trùng trong vườn, mật độ đặt bẫy từ 15-20 bẫy/ha, treo cách mặt đất 1,2-1,5 m.
Biện pháp hoá học: Sử dụng thuốc theo nguyên tắc 4 đúng, chỉ dùng các thuốc đã được đăng ký trong Danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng ở Việt Nam. Nồng độ và liều lượng theo khuyến cáo của nhà sản xuất.
Đối với nhóm bệnh hại do nấm (bệnh đốm nâu, thối thân thối quả, bệnh thối gốc - phình thân, bệnh thán thư): Khi bệnh mới chớm xuất hiện, sử dụng luân phiên thuốc có các hoạt chất như Tebuconazole, Mancozeb, Propineb, Metalaxyl, Dimethomorph, Difenoconazole, Azoxystrobin, Chlorothalonil, Fosetyl Aluminium, Copper oxychloride, Hexaconazole…để phòng trừ. Phun khi cây ra chồi mới hoặc vào đầu mùa mưa, bệnh nặng, cần phun lại lần 2 cách lần 1 khoảng 7 - 10 ngày. Sử dụng thuốc luân phiên để tránh hiện tượng kháng thuốc. Xử lý gốc chanh dây khi phát hiện bệnh thối gốc, phình thân và cây các cây xung quanh vùng bệnh bằng thuốc có hoaṭ chất như Phosphonate, Fosetyl Aluminium, Metalaxyl... Xử lý 01 hoặc 02 lần vào đầu và cuối mùa mưa bằng phương pháp tưới, sục gốc, hoặc quét lên vết bệnh.
Đối với nhóm bệnh virus và côn trùng môi giới (rệp muội, bọ phấn, bọ trĩ): Treo bẫy dính vàng để dự tính dự báo sớm sự xuất hiện của các môi giới truyền virus, thường xuyên kiểm tra vườn để phòng trừ kịp thời. Trùm lưới là biện pháp hiệu quả nhất để bảo vệ cây con khỏi các côn trùng gây hại, đặc biệt là các môi giới truyền virus từ khi mới trồng tới khi cây chuẩn bị lên giàn. Chỉ tiến hành phun thuốc bảo vệ thực vật có chứa các hoạt chất: Spirotetramat, Abamectin, Emamectin benzoate để phòng trừ môi giới truyền virus ngay sau khi tháo bỏ lưới. Nếu không trùm lưới bảo vệ cây trước khi trồng, phải phun phòng trừ các môi giới truyền virus như rầy, rệp, bọ phấn và côn trùng khác ngay sau khi trồng cây bằng thuốc có chứa các hoạt chất: Spirotetramat, Abamectin, Emamectin benzoate, Matrine... Sau đó có thể sử dụng các thuốc trên để phòng trừ khi điều tra thấy các côn trùng môi giới gây hại trong vườn. Sau các đợt cắt tỉa khi cây bắt đầu ra lộc, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật có hoạt chất: Abamectin, Azadirachtin, Emamectin benzoate để phun phòng trừ côn trùng gây hại.
Đối với các loại nhện hại: Sử dụng luân phiên các thuốc có chứa hoạt chất như Abamectin Abamectin+Petroleum oil 39,7%, propargite, dầu khoáng… phun ướt đều bề mặt lá và các bộ phận khác trên cây. Sau 3 - 5 ngày nếu thấy vẫn còn nhện cần phun nhắc lại lần 2.
Đối với ruồi đục quả: Dùng bẫy dính màu vàng hoặc bẫy dẫn dụ có hoạt chất Methyl Eugenol treo bên ngoài vườn, để dự báo sự xuất hiện của ruồi. Khi có ruồi vào bẫy, phun bả protein (Ento-Protein 150 DD). Liều lượng và cách sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Nên phun bả protein đồng loạt trên diện rộng để tăng hiệu quả diệt ruồi.
Người nông dân cần áp dụng đồng bộ các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp để phòng trừ sâu bệnh gây hại trên cây chanh leo đạt hiệu quả.
Lê Loan - TH