Giới thiệu > Thành tựu giai đoạn 2010-2015
cctc-(1).jpg
PHẦN THỨ NHẤT
Kiểm điểm đánh giá việc thực hiện nghị quyết Đại hội
Đảng bộ xã Khóa II, nhiệm kỳ 2010 – 2015
- - - - - - - - - - - - -- - - - -- -  - -
Bước vào thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã Chư Pơng lần thứ II, được sự quan tâm lãnh đạo của Ban thường vụ Huyện uỷ và UBND huyện, sự đoàn kết của toàn đảng bộ và sự ủng hộ của toàn đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã nhà, đến nay đã đạt được những thành tựu quan trọng.
          Tuy vậy tình hình ANCT luôn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp, các thế lực thù địch trong và ngoài nước vẫn cấu kết chống phá cách mạng phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; Thời tiết không thuận lợi cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp, nhận thức của nhân dân về chuyển đổi cơ cấu cây trồng còn chậm, tình hình lạm phát, suy thoái đã ảnh hưởng đến đời sống của nhân. Tỷ lệ hộ nghèo cao, nguồn vốn đầu tư từ các kênh hạn chế, công nghiệp tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ hầu như không phát triển. Tình hình trật tự, an toàn xã hội, các loại tệ nạn có chiều hướng phát triển, gây tâm lý  xấu trong nhân dân.
          Để tổng kết đánh giá nhiệm kỳ 2010-2015 và xác định nhiệm vụ chính trị nhiệm kỳ 2015-2020, Ban chấp hành Đảng bộ xã khóa II xây dựng báo cáo chính trị trình Đại hội  khóa III như sau:
           I. Những thành tựu đạt được
1. Trên lĩnh vực kinh tế.
Kinh tế tăng trưởng ổn định và ở mức khá, cơ cấu phù hợp, phát huy được thế mạnh, nội lực của địa phương, kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ; Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm (giai đoạn 2010-2015) là 6%; Tổng giá trị sản xuất năm 2015 ước đạt 64,5 tỷ đồng. Thu nhập bình quân đầu người đạt 15,4 triệu đồng (đạt 187,5% so với nghị quyết).
1.1. Sản xuất nông nghiệp: Tập trung thâm canh cây cà phê, hồ tiêu và lúa nước, nền nông nghiệp trên địa bàn phát triển đúng định hướng,  giữ vai trò chủ yếu trong cơ cấu kinh tế. Giá trị sản xuất bình quân hàng năm đạt 55 tỷ đồng (so với đầu nhiệm kỳ tăng 25tỷ đồng); chiếm tỷ trọng 85,27% trong tổng giá trị sản xuất. Tổng diện tích gieo trồng bình quân hàng năm 1213,7 ha. Tổng sản lượng lương thực (qui thóc) ước đạt 748,2 tấn/năm, bình quân lương thực đầu người đạt 176 kg/năm.
Về chăn nuôi. Tổng giá trị sản xuất đạt 3.3 tỷ đồng, chiếm 5.1% tổng giá trị sản xuất; đàn gia súc, gia cầm 4230 con, so với đầu nhiệm kỳ giảm 454 con, so với nghị quyết đạt 66,6% kế hoạch; trong đó (đàn bò 893 con, đàn heo 1076 con, dê 29 con), đàn gia cầm 2232 con; công tác phòng chống dịch bệnh ở gia súc, gia cầm được thực hiện thường xuyên, kịp thời, không để xảy ra các loại dịch bệnh.
1.2. Tiểu thủ công nghiệp: tiểu thủ công nghiệp đã có bước phát triển với quy mô vừa và nhỏ theo hướng mở rộng các loại hình ngành nghề, cơ sở sản xuất. Giá trị sản xuất đạt 3 tỷ đồng; chiếm tỷ trọng 4,6% trong tổng giá trị sản xuất. Hiện nay trên địa bàn có 17 cơ sở sản xuất, chế biến, so với đầu nhiệm kỳ tăng 9 cơ sở. Ngành nghề chủ yếu là cơ khí hàn tiện, sửa chữa và xay xát chế biến lương thực.
1.3. Thương mại - Dịch vụ: cơ bản đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu về đời sống cũng như yêu cầu phục vụ sản xuất phát triển kinh tế, văn hóa- xã hội của nhân dân (có 35 hộ kinh doanh nhỏ lẻ). Giá trị sản xuất đạt 3,2 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 4,9 % trong tổng giá trị sản xuất…; Hoạt động vận tải hiện có 4 phương tiện đang hoạt động chủ yếu là xe khách, xe tải; Tỷ lệ hộ sử dụng điện thoại di động chiếm 97%. Về hoạt động dịch vụ tín dụng hiện nay tổng dư nợ các ngân hàng thương mại hàng chục tỷ đồng, riêng ngân hàng chính sách xã hội là 12 tỷ đồng, nhìn chung đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh trên địa bàn.
1.4. Công tác quản lý đất đai, tài nguyên khoáng sản: Nguồn tài nguyên đất đai, khoáng sản đã được chú trọng quản lý và khai thác. Việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất kịp thời, phù hợp với thực tế và định hướng phát triển của địa phương; Công tác cấp đổi, cấp mới giấy CNQSD đất được quan tâm, đẩy nhanh tiến độ, đến nay đã làm thủ tục cấp mới đạt 90% kế hoạch; phối hợp với phòng tài nguyên môi trường huyện tiến hành đấu giá 32 lô đất tại khu dân cư (đã tổ chức đấu giá được 19 lô), đền bù diện tích quy hoạch trung tâm xã, xây dựng bản đồ hiện trạng và bản đồ quy hoạch nông thôn mới.
1.5. Lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: Đầu tư xây dựng cơ bản được chú trọng, phát huy được nội lực trong dân và các nguồn vốn khác, tập trung chủ yếu ở các công trình phục vụ dân sinh và sản xuất nông nghiệp, đã vận động cán bộ, nhân dân toàn xã đóng góp kinh phí cùng với nguồn ngân sách của huyện hỗ trợ đầu tư đã tiến hành làm 1,7 km đường giao thông nông thôn gần 2 tỷ đồng (trong đó nhân dân đóng góp 498.682.000đ); làm 3km đường nhựa từ làng Kênh Siêu đi thôn Thái hà từ nguồn vốn cạnh tranh nông nghiệp; xây dựng 88 nhà thuộc chương trình 167; xây dựng 03 nhà sinh hoạt cộng đồng, 02 giếng khoan cấp nước tập trung; 07 phòng học mẫu giáo; nhà trực đài truyền thanh, sữa chữa nhà văn hóa; nhà bếp tập thể; công trình vệ sinh trụ sở ủy ban; nhà làm việc xã đội, nhà làm việc các đoàn thể,...
1.6. Công tác Thu, chi ngân sách:
Tổng thu ngân sách 5 năm là 18 tỷ đồng đạt 103% so với nghị quyết.
Trong đó: Thu ngân sách trên địa bàn xã là 6 tỷ đồng đạt 145,7% kế hoạch.
Tổng chi ngân sách: 18 tỷ đồng đạt 103 so với kế hoạch giao.
Nhìn chung công tác thu chi ngân sách đảm bảo đúng luật và các qui định về tài chính khác.
1.7. Về chương trình xây dựng Nông thôn mới: Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thành công tác khảo sát lập quy hoạch và xây dựng đề án, đồ án, thành lập các Ban giúp việc từ xã đến thôn, làng để tổ chức triển khai thực hiện. Công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách được quan tâm tạo điều kiện cho cả hệ thống chính trị và nhân dân hiểu rõ mục đích, nội dung về xây dựng nông thôn mới. Qua 4 năm thực hiện phong trào thi đua ‘Gia lai chung sức xây dựng nông thôn mới” tổ chức phát động quần chúng nhân dân 10 đợt, đến nay xã đã đạt được 12/19 tiêu chí theo bộ tiêu chí quốc gia, phấn đấu đến năm 2018 hoàn thành 19/19 tiêu chí.
2. Trên lĩnh vực Văn hóa, xã hội:
2.1. sự nghiệp giáo dục và đào tạo: Toàn xã có 2 trường: Trường tiểu học và trung học cơ sở Huỳnh Thúc Kháng và trường mẫu giáo Hoa Lan, chất lượng giáo dục từng bước phát triển đảm bảo cho việc dạy và học, các bậc học từ trung hoc, tiểu học, mầm non ngày càng được quan tâm. Đội ngũ giáo viên được chuẩn hóa, tỷ lệ trẻ em đi học đúng độ tuổi đạt 99%; tỷ lệ duy trì sỹ số đạt 98%, học sinh người dân tộc thiểu số chiếm 89% so với tổng số học sinh, tỷ lệ phổ cập mầm non 5 tuổi đạt 100%.
Cơ sở vật chất: Hiện hai trường có 38 phòng (Huỳnh Thúc Kháng 28; Mẫu giáo Hoa Lan 10); phòng làm việc ban giám hiệu 02; văn phòng 02; tập thể 03, tăng so với đầu nhiệm kỳ 06 phòng, tuy chưa được đầu tư xây dựng khang trang nhưng cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập.
          2.2. Công tác y tế: công tác Y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng được quan tâm, đội ngũ cán bộ y tế xã được đáp ứng, các chương trình y tế quốc gia, tiêm chủng mở rộng và công tác phòng chống dịch bệnh được triển khai thực hiện kịp thời, có chất lượng. Công tác kiểm tra bảo đảm vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm được thực hiện thường xuyên; Duy trì tốt chế độ trực tại trạm để khám và điều trị bệnh cho nhân dân; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng năm 2010 là 33%, đến nay còn 27%, giảm 6% so với đầu nhiệm kỳ.
Công tác DS-KHHGĐ. Trong nhiệm kỳ qua đã tổ chức thực hiện tốt các hoạt động về dân số kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn, năm 2010 tỷ xuất sinh là 4,5%, năm 2015 giảm xuống còn 2,5% (giảm 2%). Tổng dân số tính đến cuối năm 2014 là 4375 khẩu tăng so với đầu nhiệm kỳ tăng 875 khẩu.
2.3. Về văn hóa thông tin, tuyên truyền, thể dục, thể thao: các hoạt động văn hóa thể dục thể thao được quan tâm đầu tư và có bước phát triển mới, tham gia đầy đủ các phong trào do huyện tổ chức; 9/9 thôn có nhà sinh hoạt cộng đồng, 8/9 thôn được công nhận làng văn hóa, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sồng văn hóa được phát triển sâu rộng trong nhân dân, duy trì và bảo tồn phát huy giá trị văn hoá truyền thống, vận động nhân dân giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, khôi phục các đội cồng chiêng các làng, qua thống kê đến nay trên địa bàn xã còn 05 bộ cồng, chiêng chủ yếu tập trung ở một số làng như: Hố Lâm, Hố Bi, Tốt tâu, Kênh Siêu.
2.4. Công tác xã hội: Công tác Lao động, thương binh, xã hội và xóa đói giảm nghèo được quan tâm chỉ đạo, đời sống của nhân dân cơ bản được ổn định và phát triển, gia đình chính sách, hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số luôn được quan tâm. Tỷ lệ hộ nghèo còn 14%, theo chuẩn mới giai đoạn 2011-2015 giảm 19% so với đầu nhiệm kỳ (đầu nhiệm kỳ 271 hộ nghèo, đến nay còn 133 hộ), giải quyết việc làm cho 357 lao động, trong đó có 24 người đi lao động ở nước ngoài; đào tạo nghề trên địa bàn xã được 178 người (trong đó: nghề may 25 học viên; xây dựng 51 học viên; sữa chữa máy nổ 20 học viên; trồng rau 30 học viên; trồng lúa năng suất cao 22 học viên; chăm sóc cà phê 30 học viên).
          Chính sách đền ơn đáp nghĩa được thực hiện tốt, việc chi trả chế độ, trợ cấp cho đối tượng chính sách kịp thời và đúng quy định, đã vận động quỹ đền ơn đáp nghĩa xây dựng 16 căn nhà cho đối tượng chính sách, làm mới 11 căn, sữa chữa 05 căn, công tác bảo trợ xã hội được duy trì thường xuyên, tổng số đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn xã 89, tăng so với đầu nhiệm kỳ 69 đối tượng; công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế được tổ chức thực hiện tốt.
3. Trên lĩnh vực Quốc phòng – An ninh
          3.1. Về nhiệm vụ quốc phòng quân sự địa phương: Nhiệm vụ quốc phòng: Quốc phòng là nhiện vụ quan trọng của Đảng. Đảng ủy đã thường xuyên quan tâm chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, luôn chủ động đề cao cảnh giác cách mạng, nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Tổ chức giáo dục chính trị Quốc phòng an ninh đối tượng 4 cho 60 cán bộ thôn làng, điều tra phương tiện kỹ thuật có chuyên môn nghiệp vụ cần cho quân đội đúng theo kế hoạch, giao quân 32 thanh niên đạt 106% kế hoạch. diễn tập khu vực phòng thủ đạt kết quả cao.
          Nhiệm vụ quân sự địa phương: Thường xuyên chỉ đạo xây dựng lực lượng dân quân đảm bảo số lượng và chất lượng theo quy định của cấp trên, xây dựng lực lượng dân quân đạt 1,89 % so với dân số; Tổ chức giáo dục chính trị tư tưởng và huấn luyện Dân quân hàng năm đều đạt loại khá trở lên, có trên 85% quân số tham gia huấn luyện. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng và  xây dựng thực lực chính trị nên chất lượng và độ tin cậy của lực lượng dân quân đạt yêu cầu. Ban chỉ huy quân sự xã có 05 đồng chí (02 chính trị viên, 01 chỉ huy trưởng; 02 chỉ huy phó), chi bộ quân sự có cấp ủy.          
3.2. Về an ninh chính trị, an ninh nông thôn và trật tự an toàn xã hội. An ninh chính trị: Tình hình an ninh chính trị diễn biến phức tạp, các đối tượng FULRO lưu vong vẫn liên lạc, móc nối với một số đối tượng cốt cán nhen nhóm phục hồi tổ chức, tái nhóm họp tại làng Hố bi, Hố lang. Chỉ đạo cho lực lượng công an xã phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức răn đe các đối tượng trong diện quản lý được 115 lần với 324 lượt đối tượng, đồng thời đưa 9 đối tượng ra kiểm điểm trước dân. Tổng số đối tượng FULRO và liên quan đến hoạt động FULRO còn 23 đối tượng, giảm 3 đối tượng so với đầu nhiệm kỳ.
Tình hình an ninh nông thôn: Xảy ra 03 vụ việc liên quan đến nghi ngờ có thuốc thư tại làng Kênh Siêu, Đảng ủy đã chỉ đạo Chính quyền, công an, hệ thống chính trị thôn, làng tổ chức hòa giải, đến nay đã giải quyết dứt điểm vụ việc, không để tạo thành điểm nóng.
- Trật tự an toàn xã hội: Xảy ra 97 vụ việc (có 37 vụ nổi cộm, trong đó: giết người 01; cướp tài sản 01; phá hoại tài sản 03; trộm cắp 32,...); chuyển công an huyện 27 vụ; giải quyết dứt điểm 62 vụ, tồn đọng 08 vụ đang trong quá trình điều tra xử lý, tổ chức thành lập 09 tổ an ninh trật tự tại các thôn, làng có 97 người tham gia. Qua đó lực lượng công an đấu tranh có hiệu quả và chủ động phòng ngừa, kiềm chế sự gia tăng đối với một số tội phạm nguy hiểm.
- Về an toàn giao thông. Thực hiện nghị định của chính phủ, các văn bản của cấp có thẩm quyền về kiềm chế gia tăng và giảm dần tai nạn giao thông, trong những năm qua trên địa bàn xã xảy ra 5 vụ va chạm giao thông (không có trường hợp nào thiệt hại về người) ước tính thiệt hại khoảng 15 triệu đồng, tổ chức tuần tra kiểm soát theo kế hoạch, phát hiện và nhắc nhở 110 trường hợp, lập biên bản 134 trường hợp, ra quyết định xử phạt hành chính với số tiền 43.580.000đ.
4. Xây dựng hệ thống chính trị.
4.1 Công tác xây dựng Đảng: Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng luôn được xác định là nhiệm vụ hàng đầu nên được Đảng ủy quan tâm chỉ đạo, thực hiện nghiêm túc và đạt được nhiều kết quả. Các nghị quyết, Chỉ thị của Đảng các cấp được tổ chức quán triệt, truyền đạt tới  toàn thể cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân dân; việc xây dựng kế hoạch thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng được chỉ đạo thực hiện kịp thời, sâu sắc và chất lượng nhất là trong quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, viết sổ tay làm theo gương Bác đã đem lại nhiều kết quả thiết thực góp phần không nhỏ trong việc khắc phục những biểu hiện suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống trong đội ngũ cán bộ đảng viên, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng; Công tác sơ kết, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết của Đảng được quan tâm và tổ chức thực hiện theo đúng kế hoạch, đánh giá sát tình hình.
          Công tác tổ chức, cán bộ và đảng viên được chú trọng, đạt được nhiều kết quả tích cực: Thường xuyên rà soát, cũng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị từ xã đến các thôn, làng; Công tác quy hoạch cán bộ được thực hiện hàng năm theo đúng quy trình, từng bước trẻ hóa đội ngũ cán bộ.  
          Công tác đánh giá cán bộ được thực hiện đúng quy trình. Hàng năm đã chỉ đạo và tổ chức kiểm điểm tự phê bình và phê bình đối với cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể và cá nhân lãnh đạo theo hướng dẫn của cấp trên; Việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng; chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên; Công tác phát triển đảng viên mới được quan tâm chỉ đạo và đạt kết quả tốt, tỷ lệ phát triển đảng viên trung bình hàng năm đạt và vượt so với Nghị quyết); Toàn Đảng bộ đầu nhiệm kỳ có 30 đảng viên sinh hoạt ở 5 chi bộ, hiện nay có 96 đảng viên đang sinh hoạt tại 13 chi bộ (trong đó có 9 chi bộ thôn, làng), tăng 08 chi bộ.
          Công tác đánh giá, phân loại tổ chức đảng và đảng viên được thực hiện nghiêm túc. Trong nhiệm kỳ, qua phân loại tổ chức đảng và đảng viên của đảng bộ có 03 năm Đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh, 02 năm đạt hoàn thành tốt nhiệm vụ, hàng năm đảng bộ có 96% đảng viên hoàn thành nhiệm vụ (trên 80% đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ).
          Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng được tăng cường. Hàng năm Ban Chấp hành Đảng bộ xã xã chỉ đạo Ủy ban kiểm tra Đảng ủy xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát  tổ chức đảng và đảng viên theo quy định Điều lệ Đảng. tập trung vào việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở; việc thực hành tiết kiệm phòng chống tham nhũng, lãng phí; qua 5 năm đã tiến hành kiểm tra, giám sát được 13/13 tổ chức đảng, qua công tác kiểm tra, giám sát đã giúp cho tổ chức đảng và đảng viên nâng cao nhận thức trong việc chấp hành các nghị quyết của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước, đã khai trừ 02 đảng viên và thi hành kỷ luật với hình thức khiển trách 02 đảng viên. Từ đó giúp cho tổ chức đảng và đảng viên tăng cường lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát tốt hơn, góp phân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ.
Công tác dân vận của cấp ủy, chính quyền được triển khai rộng khắp, qua đó đã phát huy được quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thực hiện tốt công tác “Dân vận khéo”, phát huy hiệu quả của các Tổ dân vận thôn, làng trong tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tê- xã hội, giữ vững quốc phòng- an ninh, động viên sức người, sức của để chung tay xây dựng nông thôn mới; tuyên truyền vận động quần chúng nâng cao cảnh giác cách mạng trước những âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng các vấn đề về dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; phát động quần chúng tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc, giữ gìn an ninh trật tự, an ninh nông thôn. Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở gắn với nhiệm vụ kinh tế - xã hội, cải cách thủ tục hành chính ngày càng có hiệu quả đã tác động tích cực tới công tác phòng chống, tham nhũng lãng phí, thực hành tiết kiệm, xây dựng Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội trong sạch vững mạnh.
4.2. Công tác xây dựng chính quyền:
Đối với Hội đồng nhân dân: Chất lượng hoạt động của HĐND xã được nâng lên, nhất là trong hoạt động giám sát và tổ chức các kỳ họp đúng luật định, cụ thể hóa các Nghị quyết của Đảng ủy theo đúng chủ trương, đường lối, đáp ứng giải quyết những nhu cầu bức xúc chính đáng của nhân dân, thực hiện tốt nề nếp, mối liên hệ, tiếp xúc cử tri với đại biểu HĐND theo quy định của pháp luật, nắm bắt kịp thời những tâm tư, nguyện vọng và kiến nghị chính đáng của cử tri để đề xuất giải quyết.
Đối với Ủy ban nhân dân: Ủy ban nhân dân xã đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ xã, HĐND và của cấp trên về việc quản lý, điều hành thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh đạt kết quả tốt. Tổ chức bộ máy của UBND tiếp tục được kiện toàn, bố trí phù hợp với từng chức danh chuyên môn trên từng lĩnh vực công tác, nhưng so với yêu cầu đòi hỏi thực tế thì vẫn còn một số cán bộ trình độ được đào tạo cơ bản, không ngừng phát huy tác dụng trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện, trên cơ sở thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc.
4.3. Hoạt động Mặt trận và các đoàn thể:
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được củng cố và mở rộng, các tầng lớp nhân dân đã phát huy tinh thần yêu nước, tích cực thi đua tăng gia sản xuất, kinh doanh giỏi, làm giàu chính đáng, tích cực tham gia đóng góp cho xã hội. Các chức sắc tôn giáo, già làng, người dân tộc thiểu số đã phát huy tốt vai trò trách nhiệm, góp phần xây dựng khối đoàn kết toàn dân tộc ngày càng vững chắc
Công tác tập hợp quần chúng vào các tổ chức chính trị- xã hội được chú trọng cả về số lượng cũng như chất lượng. Tỷ lệ tập hợp đoàn viên, hội viên trong các tổ chức đoàn thể đã đạt được như sau: Hội Liên hiệp thanh niên 80% (đạt 100% NQ), Hội Phụ nữ 90 % (đạt 100%NQ), Hội Nông dân 78% (đạt 80% NQ), Hội Cựu chiến binh 100% (đạt 100% NQ). Việc triển khai cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong các tổ chức quần chúng đã đi vào chiều sâu và có sức lan toả lớn góp phần phát huy tốt vai trò của lực lượng đoàn viên, hội viên trong tham gia thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương, đặc biệt đã phát huy tốt vai trò của các vị chức sắc tôn giáo, già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng dân cư để vận động nhân dân tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, tham gia giải quyết những vấn đề mâu thuẫn trong nhân dân, những vấn đề nhạy cảm liên quan đến dân tộc, tôn giáo, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội, giữ vững an ninh- quốc phòng của địa phương; Các tổ chức Đoàn, Hội thường xuyên được củng cố, kiện toàn, duy trì hoạt động có nề nếp và hiệu quả. Kết quả phân loại tổ chức hội đều đạt vững mạnh, không có tổ hội chức yếu kém.
 

Thông tin liên hệ:

  • Huyện Chư Sê - tỉnh Gia Lai
  • ubndchuse@gialai.gov.vn
  • (0269) 385 1781
  • Fax: 0269  385 1781

Thông tin bản quyền:

Bản quyền thuộc về UBND huyện Chư  Sê
Chịu trách nhiệm: Ông Trần Văn Lam - Chánh văn phòng HĐND&UBND huyện Chư Sê
Địa chỉ: 761 Hùng Vương - huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai 
Giấy phép số: 08/GP-TTĐT ngày 14/7/2017 của Bộ Thông tin và Truyền thông.